Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng là gì? Các công bố khoa học về Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng

Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng là hiện tượng mà trong một môi trường chứa các phân tử hoặc tế bào bị căng, sự chuyển động, dao động của một phân tử hoặc tế b...

Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng là hiện tượng mà trong một môi trường chứa các phân tử hoặc tế bào bị căng, sự chuyển động, dao động của một phân tử hoặc tế bào cụ thể có thể tác động đến các phân tử hoặc tế bào xung quanh, làm gia tăng độ căng của chúng. Hiện tượng này có thể gặp trong nhiều lĩnh vực như vật lý, hóa học, sinh học, y học, và kỹ thuật.
Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng diễn ra trong môi trường chứa sự căng thẳng, như bề mặt của một chất lỏng hoặc màng tổng hợp, mạch máu hoặc các tế bào trong cơ thể.

Trong một môi trường này, một phân tử hoặc tế bào căng bị kích thích và tạo ra một sự biến đổi, như dao động hoặc chuyển động. Khi phân tử hoặc tế bào này di chuyển, nó tạo ra một tín hiệu (như sóng âm, ánh sáng hoặc tín hiệu sinh học) và lan truyền nhanh chóng thông qua môi trường xung quanh.

Sau đó, các phân tử hoặc tế bào khác trong môi trường sẽ nhận được tín hiệu này và cũng bị kích thích, tạo ra một phản ứng tương tự. Quá trình này tiếp tục lan truyền và kết hợp các tín hiệu từ nhiều phân tử hoặc tế bào lại với nhau, tạo thành một cộng hưởng và gia tăng sức căng trên toàn bộ môi trường.

Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng có thể tạo ra các hiệu ứng quan trọng trong nhiều lĩnh vực. Ví dụ, trong nghiên cứu vật lý, nó có thể tạo ra hiệu ứng như cộng hưởng từ trong nhiễu, trong đó các phân tử hoặc tế bào sẽ tự tổ chức và đồng tử hóa để tạo ra một môi trường ổn định. Trong lĩnh vực sinh học và y học, nó có thể tác động đến quá trình sinh tồn và phát triển của các tế bào và mô cơ thể.
Để hiểu rõ hơn về cộng hưởng từ khuếch tán sức căng, cần phân tích quá trình diễn ra cụ thể.

1. Kích thích: Một phân tử hoặc tế bào căng trong môi trường bị kích thích, có thể thông qua áp lực, áp suất, nhiệt độ, ánh sáng, sóng âm, hoặc tác động cơ học khác.

2. Biến đổi: Khi bị kích thích, phân tử hoặc tế bào sẽ truyền năng lượng và tạo ra một sự biến đổi. Ví dụ, một tế bào nerôn bị kích thích có thể phát ra xung điện hoặc một phân tử dẫn điện có thể chuyển đổi vị trí và hình dạng của nó.

3. Tín hiệu: Quá trình biến đổi tạo ra một tín hiệu điều chỉnh, như sóng âm, sóng điện từ, hoặc tín hiệu sinh học (như hormone, dẫn xuất sinh học, hoặc tín hiệu truyền tin trong cơ thể).

4. Truyền tín hiệu: Tín hiệu được truyền từ phân tử hoặc tế bào ban đầu tới các phân tử hoặc tế bào xung quanh. Tín hiệu này có thể truyền thông qua truyền dẫn trực tiếp (như trong mạch máu) hoặc thông qua môi trường xung quanh (như trong màng tổng hợp). Quá trình truyền tín hiệu này khá nhanh chóng.

5. Kích thích tiếp theo: Các phân tử hoặc tế bào nhận được tín hiệu sẽ tiếp tục bị kích thích và tạo ra các sự biến đổi tương tự như ban đầu. Quá trình này tiếp tục lan truyền và tạo thành một chuỗi các sự biến đổi và tín hiệu.

6. Cộng hưởng: Khi các tín hiệu từ nhiều phân tử hoặc tế bào được kích thích tạo ra sự biến đổi và lan truyền, chúng có thể kết hợp lại với nhau và tăng cường lẫn nhau. Kết quả là sức căng của toàn bộ môi trường được gia tăng đáng kể.

Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng có thể tạo ra các hiệu ứng phức tạp và quan trọng trong các hệ thống tự tổ chức và tương tác trong tự nhiên và trong các ứng dụng kỹ thuật. Ví dụ, trong các màng tổng hợp được sử dụng trong công nghệ sinh học, cộng hưởng từ khuếch tán sức căng có thể tạo ra cấu trúc tự tổ chức và tính chất đặc biệt, cần thiết cho các ứng dụng như tạo mô và tài liệu y tế.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cộng hưởng từ khuếch tán sức căng":

Đặc điểm tổn thương sợi trục của u thần kinh đệm trên cộng hưởng từ khuếch tán sức căng
Nghiên cứu được tiến hành nhằm mô tả đặc điểm tổn thương sợi trục ở nhóm u thần kinh đệm bậc thấp và bậc cao trên cộng hưởng từ khuếch tán sức căng. Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang từ tháng 9/2019 đến tháng 4/2021 trên 46 bệnh nhân có giải phẫu bệnh là u thần kinh đệm và đều được chụp cộng hưởng từ khuếch tán sức căng trước phẫu thuật hoặc sinh thiết. Bó vỏ tuỷ có tổn thương phù và thâm nhiễm là hai hình thái hay gặp với tỷ lệ tương ứng là 21,7% và 45,7%, trong đó phù hay gặp ở nhóm u bậc thấp, thâm nhiễm hay gặp ở nhóm u bậc cao. Trong các bó thuộc đường ngôn ngữ, phù và đè đẩy là tổn thương hay gặp ở nhóm u bậc thấp, thâm nhiễm là tổn thương hay gặp ở nhóm u bậc cao. Phá huỷ sợi trục gặp ở 5/6 bó chất trắng trong nhóm u bậc cao, không gặp trường hợp nào ở nhóm u bậc thấp. Sự khác biệt về đặc điểm tổn thương sợi trục giữa hai nhóm u thần kinh đệm có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Qua nghiên cứu chúng tôi có kết luận, trên hình ảnh cộng hưởng từ khuếch tán sức căng, u thần kinh đệm bậc thấp thường gặp tổn thương phù và đè đẩy, u thần kinh đệm bậc cao hay gặp thâm nhiễm và phá huỷ sợi trục.
#Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng #sợi trục #u thần kinh đệm.
CHẨN ĐOÁN PHÂN BIỆT U NGUYÊN BÀO THẦN KINH ĐỆM VÀ DI CĂN NÃO ĐƠN Ổ: GIÁ TRỊ CỦA CỘNG HƯỞNG TỪ KHUẾCH TÁN SỨC CĂNG VÀ ĐỊNH LƯỢNG TÍN HIỆU TRÊN CHUỖI XUNG FLAIR
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Vai trò của giá trị FA, MD của chuỗi xung khuếch tán sức căng và định lượng tín hiệu trên chuỗi xung FLAIR trong chẩn đoán phân biệt u nguyên bào thần kinh đệm (GBM) và di căn não đơn ổ (MET) trên cộng hưởng từ 3.0 Tesla. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương pháp hồi cứu trên 50 bệnh nhân được chụp cộng hưởng từ sọ não trước sinh thiết hoặc phẫu thuật và được chẩn đoán GBM hoặc MET trên giải phẫu bệnh. Kết quả: Vùng quanh u ghi nhận giá trị FA (qFA) ở GBM lớn hơn và giá trị tín hiệu FLAIR thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với MET (p<0,05). Giá trị FA, MD, FLAIR và tỷ lệ tương đối của FA, FLAIR với chất trắng lành tính đối diện ở vùng ngấm thuốc của khối u (uFA, uMD, uFLAIR, u/tFA, u/tFLAIR) ở GBM đều lớn hơn đáng kể so với ở MET có ý nghĩa thống kê. Sự kết hợp các giá trị uFA, uMD, uFLAIR, u/tFA, u/tFLAIR, qFA có giá trị cao nhất trong chẩn đoán phân biệt hai loại u với diện tích dưới đường cong 0,975, độ nhạy 88,6%, độ đặc hiệu 100%. Kết luận: Các giá trị uFA, uMD, uFLAIR, u/tFA, u/tFLAIR, qFA là các chỉ số hữu dụng trong chẩn đoán phân biệt GBM và MET. Sự kết hợp các chỉ số này giúp nâng cao giá trị chẩn đoán phân biệt hai loại u.
#cộng hưởng từ khuếch tán sức căng #u nguyên bào thần kinh đệm #di căn não #chẩn đoán
1. Ứng dụng cộng hưởng từ khuếch tán sức căng trong phẫu thuật u tế bào thần kinh đệm liên quan tới bó tháp
Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng (Diffusion tensor imaging - DTI) cho thấy những thay đổi trong chất trắng, cũng như mối quan hệ giữa khối u và các cấu trúc khác. DTI giúp cải thiện kết quả phẫu thuật và tăng độ an toàn khi phẫu thuật lấy u thần kinh đệm ở những vùng chức năng, đặc biệt là vùng chức năng vận động. Chúng tôi nghiên cứu tiến cứu với 50 bệnh nhân từ tháng 8/2021 đến tháng 8/2022 tại Trung tâm phẫu thuật thần kinh, Bệnh viện Việt Đức và ghi nhận các khối u thần kinh đệm bậc cao thường có tổn thương thâm nhiễm và phá huỷ bó tháp trên phim chụp cộng hưởng từ khuếch tán sức căng, trong khi các khối u thần kinh đệm bậc thấp thường gặp tổn thương bình thường và đè đẩy bó tháp. Điểm sức cơ sau phẫu thuật cải thiện và bảo tồn ở 90% bệnh nhân, trong khi điểm mRS không đổi hoặc cải thiện chiếm 86%. Áp dụng chụp cộng hưởng từ khuếch tán sức căng kết hợp định vị thần kinh trong phẫu thuật vi phẫu u não thần kinh đệm vùng chức năng vận động giúp cải thiện kết quả phẫu thuật của bệnh nhân sau phẫu thuật.
#Vi phẫu thuật #u tế bào thần kinh đệm #cộng hưởng từ khuếch tán sức căng #cộng hưởng từ khuếch tán bó sợi #định vị thần kinh trong phẫu thuật #bó tháp
ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG, HÌNH ẢNH CỘNG HƯỞNG TỪ BÓ THÁP VÀ TIÊN LƯỢNG HỒI PHỤC CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG SAU NHỒI MÁU NÃO
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 521 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đặc điểm lâm sàng, hình ảnh cộng hưởng từ bó tháp và tiên lượng hồi phục chức năng vận động sau nhồi máu não. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang gồm 31 bệnh nhân nhồi máu não vùng trên lều trong vòng 07 ngày và được chụp cộng hưởng từ sọ não tại Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 7 năm 2021 đến tháng 7 năm 2022. Kết quả: Tỉ lệ bệnh nhân nam mắc đột quỵ nhồi máu não chiếm ưu thế (61,3%). Liệt vận động nửa người là triệu chứng thường gặp nhất trong nhồi máu não do liên quan đến tổn thương đường đi của bó tháp. Số bệnh nhân có thang điểm NIHSS ở mức độ nặng chiếm 0%; số bệnh nhân nhân mức độ nhẹ chiếm 61,3%; có 80,6% bệnh nhân hồi phục tốt. Nhóm bệnh nhân có bó sợi trục nằm kề không đi qua ổ nhồi máu có tỷ lệ phục hồi vận động sau 3 tháng tốt hơn các nhóm có bó sợi trục nằm một phần hay nằm toàn bộ trong ổ nhồi máu (tỷ lệ tương ứng là 64,5% so với 16,1%), với p<0,05. Giá trị FA bó sợi trục bên nhồi máu ở nhóm bệnh nhân hồi phục kém nhỏ hơn nhóm bệnh nhân hồi phục tốt, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Kết luận: Các yếu tố tín hiệu bó sợi trục, vị trí bó sợi trục so với ổ nhồi máu và giá trị FA bó sợi trục bên nhồi máu có ý nghĩa dự đoán phục hồi vận động sau 3 tháng ở bệnh nhân nhồi máu não.
#cộng hưởng từ khuếch tán sức căng (DTI) #bó sợi trục (CST) #đột quỵ nhồi máu não cấp #dị hướng phân đoạn (FA)
ĐÁNH GIÁ TỔN THƯƠNG SỢI TRỤC VÀ DỰ ĐOÁN PHỤC HỒI CHỨC NĂNG VẬN ĐỘNG Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU CẤP TRÊN LỀU
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Mục tiêu: Đánh giá tổn thương sợi trục và dự đoán phục hồi chức năng vận động ở bệnh nhân nhồi máu não cấp tính trên lều. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang gồm 28 bệnh nhân nhồi máu cấp tính trên lều và được chụp cộng hưởng từ tại bệnh viện Bạch Mai từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 8 năm 2022. Kết quả: Tín hiệu sợi trục không thay đổi gặp ở phần lớn các bệnh nhân có bó sợi trục không đi qua ổ nhồi máu (28,6%), giảm mạnh tín hiệu sợi trục hay gặp ở bệnh nhân có bó sợi trục nằm hoàn toàn trong ổ nhồi máu (32,1%). Giá trị FA, ADC bó sợi trục bên nhồi máu nhỏ hơn so với bên đối diện, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Nhóm bệnh nhân có bó sợi trục không đi qua ổ nhồi máu hay không thay đổi tín hiệu sợi trục có tỷ lệ phục hồi vận động sau 3 tháng tốt hơn các nhóm còn lại (tỷ lệ tương ứng là 39,3% và 25%); nhóm bệnh nhân có bó sợi trục nằm hoàn toàn trong ổ nhồi máu hay có tín hiệu sợi trục giảm mạnh phục hồi rất kém (tỷ lệ tương ứng là 32,1% và 39,3%), với p<0,05. Giá trị FA bó sợi trục bên nhồi máu ở nhóm bệnh nhân hồi phục kém nhỏ hơn nhóm bệnh nhân hồi phục tốt, khác biệt có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Giá trị ADC không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Kết luận: Các yếu tố tín hiệu bó sợi trục, vị trí bó sợi trục so với ổ nhồi máu và giá trị FA bó sợi trục bên nhồi máu có ý nghĩa dự đoán phục hồi vận động sau 3 tháng ở bệnh nhân nhồi máu cấp tính.
#cộng hưởng từ khuếch tán sức căng (DTI) #bó sợi trục (CST) #dị hướng phân đoạn (FA) #hệ số khuếch tán (ADC)
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM BÓ VỎ - TIỂU NÃO TRÊN CỘNG HƯỞNG TỪ SỨC CĂNG KHUẾCH TÁN Ở NGƯỜI BỆNH ALZHEIMER VIỆT NAM
Tạp chí Y - Dược học quân sự - Tập 49 - Trang 35-43 - 2024
Mục tiêu: Đánh giá một số đặc điểm bó vỏ - tiểu não trên cộng hưởng từ sức căng khuếch tán (diffusion tensor imaging - DTI) ở người bệnh (NB) Alzheimer Việt Nam. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang trên 32 NB Alzheimer, so sánh với 30 người bình thường. Kết quả: Nhóm chứng: Các chỉ số gồm số lượng sợi, chiều dài sợi, số voxel, FA và ADC ở bó vỏ - tiểu não 2 bên (phải và trái) lần lượt là: 580,73 ± 256,86 và 582,16 ± 256,49 sợi; 131,15 ± 9,15 và 125,15 ± 9,22mm; 1130,63 ± 264,22 và 1114,60 ± 258,82 voxel; 0,46 ± 0,02 và 0,46 ± 0,01; 0,84 ± 0,05 và 0,84 ± 0,05. Số lượng sợi, số voxel, FA và ADC hai bên không khác biệt, p > 0,05. Chiều dài sợi bên trái lớn hơn bên phải, p = 0,006. Nhóm bệnh Alzheimer (AD), các chỉ số gồm số lượng sợi, chiều dài sợi, số voxel, FA và ADC ở bó vỏ - tiểu não 2 bên (phải và trái) lần lượt là: 390,90 ± 275,37 và 326,90 ± 222,49 sợi; 106,22 ± 23,89 và 113,67 ± 25,21mm; 899,56 ± 355,79 và 845,78 ± 348,66 voxel; 0,45 ± 0,03 và 0,46 ± 0,03; 0,78 ± 0,10 và 0,77 ± 0,10. Kết luận: Kết quả gợi ý có tổn thương vi cấu trúc ở bó vỏ - tiểu não ở nhóm AD. 
#Cộng hưởng từ sức căng khuếch tán #Bó vỏ - tiểu não #Bệnh Alzheimer
Nghiên cứu đặc điểm các đường dẫn truyền trong não người bình thường trên cộng hưởng từ sức căng khuếch tán
Mục tiêu: Khảo sát các đặc điểm của các bó chất trắng trong não người bình thường bằng cộng hưởng từ sức căng khuếch tán (DTI) 3.0 Tesla. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 30 người bình thường từ tháng 01/2021 đến tháng 6/2021. Xác định một số đặc điểm của các bó chất trắng bao gồm số lượng sợi, chiều dài sợi, chỉ số voxel, chỉ số FA, chỉ số ADC; so sánh đối xứng giữa 2 bên bán cầu và theo giới tính. Kết quả: Khoảng giá trị của số lượng sợi, chiều dài sợi, chỉ số voxel của các bó tương đối rộng, trong khi khoảng giá trị của chỉ số FA, ADC tập trung hơn, tuy nhiên vẫn có sự đa dạng của các chỉ số giữa các vùng và các bó khác nhau. Phát hiện một số sự khác biệt có ý nghĩa thống kê của các bó khi so sánh đối xứng và so sánh theo giới. Kết luận: Bước đầu cung cấp các thông số tham chiếu về đặc điểm các đường dẫn truyền giữa các trung khu của não bộ ở người bình thường trên DTI, là cơ sở để nghiên cứu xa hơn về hoạt động của não bộ cũng như xây dựng các ngưỡng tham chiếu trong chẩn đoán và điều trị các bệnh lý thần kinh sau này.
#DTI #cộng hưởng từ khuếch tán #bó dẫn truyền bình thường
BÁO CÁO TRƯỜNG HỢP LÂM SÀNG TỔN THƯƠNG ĐƯỜNG DẪN TRUYỀN GIỮA HAI BÁN CẦU ĐẠI NÃO SAU CHẤN THƯƠNG ĐẦU ĐƯỢC XÁC ĐỊNH CHẨN ĐOÁN BẰNG HÌNH ẢNH HỌC CỘNG HƯỞNG TỪ KHUẾCH TÁN SỨC CĂNG (DTI: DIFFUSION TENSOR IMAGING)
Đại cương: Chấn thương sọ não (CTSN) là một tổn thương mắc phải của não gây ra bởi một tác động đột ngột lên vùng đầu gây phá vỡ chức năng bình thường của não bộ. Sự toàn vẹn chất trắng là điểm quan trọng trong việc duy trì chức năng của não. Theo thời gian, qua nhiều tháng nhiều năm, những di chứng sau chấn thương có thế dẫn đến sự thay đổi cấu trúc và chức năng của não liên quan các vấn đề bao gồm teo não, sự mất dần các sợi thần kinh và mất dần sự kết nối giữa các sợi thần kinh, thoái hóa thần kinh và suy giảm dần chức năng. Tuy nhiên việc chẩn đoán tổn thương liên quan đến sợi trục thần kinh và sự liên kết cũng còn bị giới hạn bởi các kỹ thuật hình ảnh truyền thống Giới thiệu ca bệnh: Bệnh nhân nữ, 54 tuổi, vào viện vì tình trạng khó khăn trong phối hợp động tác. Tiền sử ghi nhận chấn thương sọ não nặng có hôn mê khoảng 10 ngày, được điều trị nội khoa tích cực. Sau chấn thương bệnh nhân có một số tình trạng bao gồm giảm trí nhớ, khó khăn trong việc phối hợp các động tác với nhau, được chẩn đoán hội chứng hậu chấn động não. Thăm khám lâm sàng ghi nhận GCS 15 (Glasgow coma scale), sức cơ tay – chân hai bên 5/5 nhưng bệnh nhân không thể đi lại được. Bệnh nhân được chụp hình ảnh bằng hệ thống máy Siemens 3.0 Spectra, các thông số được xử lý bởi phần mềm Syngo Via 4.1. Cộng hưởng từ hình thái học của não (Morphometry) cho thấy sự giảm đáng kể thể tích cấu trúc thể chai. Hình ảnh cộng hưởng từ khuếch tán sức căng (DTI: Diffusion Tensor Imaging) ghi nhận giảm thông số FA (phân số dị hướng) vùng thể chai và thái dương phải. FA (fractional anisotropy) là một thước đo có giá trị từ 0 đến 1 nhằm mô tả mức độ dị hướng của một quá trình khuếch tán. Dựa trên sự giảm của FA vùng thể chai có thể xác định chẩn đoán có sự mất liên kết giữa hai bán cầu đại não. Cộng hưởng từ bó sợi thần kinh (Tractography) tiếp tục được sử dụng mô tả sự mất đi phần lớn sợi trục vùng thể chai. Kết luận: Chấn thương sọ não là một vấn đề sức khỏe đáng quan tâm trong cộng đồng. DTI một công cụ chẩn đoán hữu dụng để giải thích toàn diện về bệnh cảnh của bệnh nhân
#Chấn thương sọ não #Teo não #Cộng hưởng từ khuếch tán sức căng #Cộng hưởng từ hình thái học #Cộng hưởng từ sợi trục thần kinh
11. Giá trị cộng hưởng từ phổ và khuếch tán sức căng định lượng trong phân bậc u thần kinh đệm trên lều
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 175 Số 2 - Trang 85-95 - 2024
Vai trò của cộng hưởng từ phổ và cộng hưởng từ khuếch tán sức căng trong dự đoán độ mô học của u thần kinh đệm (UTKĐ). Nghiên cứu tiến hành trên 60 bệnh nhân u thần kinh đệm trên lều được chụp cộng hưởng từ, phẫu thuật và có kết quả giải phẫu bệnh sau phẫu thuật tại Bệnh viện Việt Đức từ tháng 6/2021 đến tháng 8/2023. Các giá trị của Cho/NAA, FA và MD của vùng u và vùng quanh u dự đoán phân bậc u thần kinh đệm trên cộng hưởng từ được mô tả, thống kê và đối chiếu với độ mô học trên hình ảnh giải phẫu bệnh. Tỷ lệ Cho/NAAp, MDp của nhóm u thần kinh đệm bậc thấp thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm u thần kinh đệm bậc cao. Giá trị FAp của nhóm u thần kinh đệm bậc thấp cao hơn có ý nghĩa thống kê so với nhóm u thần kinh đệm bậc cao. Khi kết hợp giữa Cho/NAAp, FAp giúp chẩn đoán phân bậc u thần kinh đệm có độ nhạy 73,7% và độ đặc hiệu 95,5%. Các chỉ số Cho/NAA, FA và MD vùng quanh u giúp phân bậc u thần kinh đệm tốt hơn so với vùng u.
#Cộng hưởng từ khuếch tán #cộng hưởng từ phổ #cộng hưởng từ khuếch tán sức căng #u thần kinh đệm #phân bậc
ĐẶC ĐIỂM BÓ HỒI ĐAI TRÊN CỘNG HƯỞNG TỪ SỨC CĂNG KHUẾCH TÁN Ở BỆNH NHÂN ALZHEIMER NGƯỜI VIỆT NAM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 526 Số 1B - 2023
Mục tiêu: mô tả một số đặc điểm bó hồi đai ở bệnh nhân Alzheimer (AD) và nhóm người bình thường trên cộng hưởng từ sức căng khuếch tán (DTI). Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu cắt ngang. Tái tạo hình ảnh đường dẫn truyền bó hồi đai ở 20 bệnh nhân Alzheimer người Việt Nam và 20 người bình thường (nhóm chứng : NC) trên DTI. Kết quả: Độ tuổi trung bình của nhóm AD và nhóm chứng lần lượt là 69,05±7,77 năm và 69,70±5,83 năm, khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p=0,76). Tuổi khởi phát nhóm AD là 64,65±7,18 năm, điểm MMSE của nhóm AD là 12,20±7,35. Tỷ lệ nam/nữ của nhóm AD và nhóm chứng lần lượt là 8/12 và 9/11. Bó hồi đai phải giữa nhóm AD và nhóm chứng có trung bình các chỉ số số lượng sợi, chiều dài sợi, voxel, FA và ADC lần lượt là:  461,15±307,22 sợi và 268,45±132,09 sợi; 65,43±14,20 mm và 66,35±11,31 mm; 312,50±138,39 voxel và 238,25±69,27 voxel; 0,34±0,03 và 0,36±0,02; 0,76±0,10 và 0,77±0,07. Trong đó số lượng sợi và chỉ số voxel ở nhóm AD cao hơn nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, lần lượt: p=0,01 và p=0,04; chỉ số FA nhóm AD thấp hơn có ý nghĩa thống kê: p=0,00. Chiều dài sợi và ADC không có sự khác biệt (p>0,05). Bó hồi đai trái giữa nhóm AD và nhóm chứng có trung bình các chỉ số số lượng sợi, chiều dài sợi, voxel, FA và ADC lần lượt là: 506,90±287,29 sợi và 392,40±174,96 sợi; 71,91±17,58 mm và 75,57±9,64 mm; 349,55±131,10 voxel và 306,60±70,85 voxel; 0,35±0,03 và 0,39±0,02; 0,78±0,11 và 0,76±0,05. Trong đó số lượng sợi, chiều dài sợi, voxel và ADC ở hai nhóm không có sự khác biệt (p>0,05); FA nhóm AD thấp hơn có ý nghĩa thống kê: p=0,00. Kết luận: tái tạo bó hồi đai bằng DTI ở bệnh nhân Alzheimer người Việt Nam gợi ý rằng có thay đổi vi cấu trúc, mở ra hướng mới trong nghiên cứu tổn thương chất trắng bệnh nhân AD và các mặt bệnh khác.
#bó hồi đai #cộng hưởng từ sức căng khuếch tán (DTI) #Alzheimer.
Tổng số: 10   
  • 1